Trung tâm xuất sắc là gì, nó vận hành như thế nào, đầu vào của nó là gì, sản phẩm đầu ra là gì, làm sao nó có tiền để phát triển, nó định vị ở đâu trong hệ thống y khoa, làm sao để nó tồn tại và phát triển bền vững…là những câu hỏi quan trọng cần phải làm rỏ. Trả lời những câu hỏi này là việc phân tích và xây dựng một mô hình kinh doanh (business model).
1.
Vai trò của một Center of Excellence (CoE)
Khoa
học trong một chuyên ngành nào đó là một hành trình qua nhiều giai đoạn, thường
được chia thành 3 giai đoạn chính: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu triển khai, và
nghiên cứu ứng dụng.
- Mục
tiêu của nghiên cứu cơ bản là “khám phá và giải thích” giúp cho con người hiểu
biết nhiều hơn về thế giới tự nhiên, xã hội. Kết quả đầu ra của nghiên cứu cơ
bản chỉ là những phát hiện mới gì đó mà trước đó chưa ai biết, và thường là
trong một phạm vi khá hẹp. Những ai làm nghiên cứu sinh chắc thấu hiểu nổi khổ
của việc làm literature review, trong hàng ngàn hàng vạn nghiên cứu, làm sao hệ
thống hóa nó lại và phát hiện ra cái thứ người ta chưa làm (để làm việc này tốn
không dưới 3 năm cho 1 người làm việc cật lực).
Nghiên
cứu cơ bản không thể tạo ra tiền ngay lập tức, do đó nó thường phải được tài
trợ để nghiên cứu, và kiến thức của nghiên cứu cơ bản là miễn phí cho loài
người. Bất cứ ai cũng có thể vào các tạp chí khoa học đem bài về đọc (chỉ trả 1
chút phí cho việc vận hành tạp chí, chứ không có trả tiền cho người làm ra kiến
thức). Nghiên cứu cơ bản là công việc của các trường đại học dạng nghiên cứu,
do đó giảng viên đại học ở những nơi này là người phải có khả năng đi xin tiền
để làm nghiên cứu, và đương nhiên ai có thành tích nghiên cứu tốt hơn thì cơ
hội được tài trợ nhiều hơn, đó là sự cạnh tranh, và không phải ai cũng thích
nghi được.
- Mục
tiêu của nghiên cứu triển khai là “giải quyết một vấn đề cụ thể nào đó của con
người – tạo giá trị cho cuộc sống con người” dựa trên các hiểu biết của nghiên
cứu cơ bản. Đương nhiên, vì nó tạo ra giá trị trực tiếp cho con người, nên con
người muốn dùng nó phải trả tiền. Do đó mục tiêu của nghiên cứu triển khai là
làm ra được cái gì đó để có thể bán được (thương mại hóa – commercialization).
Nhà
nước thường không tài trợ cho nghiên cứu triển khai vì nó có thể - nói theo
kiểu của Việt Nam – “xã hội hóa”, nghĩa là nó có thể cho tư nhân, các quỹ đầu
tư tham gia với mục đích và động cơ là “vụ lợi” (xin hiểu từ này ở góc nhìn
tích cực). Vì nghiên cứu triển khai khá là rủi ro (nghiên cứu không ra, hoặc
nghiên cứu ra nhưng không ai dùng, hoặc còn lâu lắm mới phù hợp để dùng) nên
thường được rót vốn từ các quỹ đầu tư mạo hiểm (venture capital). Trong đầu tư
mạo hiểm, đầu tư 10 trúng 1 là một thành công to lớn rồi, và thế giới này thật
sự phải cám ơn các quỹ đầu tư này, nếu không ta không có những thành tựu ứng
dụng vào cuộc sống như ngày hôm nay.
Kết
quả đầu ra của nghiên cứu phát triển là các “technological rules” như kỹ thuật
điều trị, phát đồ, giải pháp kỹ thuật, bí quyết công nghệ (know-how), hay các
phát minh (patent), hay quyền tác giả (copyright)…tất cả gọi chung là quyền sở
hữu trí tuệ (Intellectual properties - IP), nó được bảo hộ và được mua bán như
một “món hàng”. Và các hình thức mua bán món hàng đặc biệt này rất đa dạng: mua
đứt bán đoạn, chuyển giao trọn gói – transferring; cấp quyền sử dụng –
licensing; góp tài sản trí tuệ vào cổ phần doanh nghiệp - sharing …(thế giới
tài chính sáng tạo ra rất nhiều loại hình mua bán IP, nên có nhiều thứ phức tạp
đến nỗi không thể hiểu nổi !).
- Mục
tiêu của nghiên cứu ứng dụng là “tối ưu hóa để cạnh tranh” trên nền tảng các IP
của giai đoạn nghiên cứu triển khai. Các IP này vẫn còn nhiều tiềm năng để tối
ưu hóa trong từng điều kiện cụ thể để giảm chi phí, để tăng hiệu quả với mục
tiêu gia tăng năng lực cạnh tranh (làm tốt hơn người khác). Kết quả của giai
đoạn nghiên cứu ứng dụng vẫn có giá trị như IP nhưng nó thường nhỏ hơn, hẹp
hơn,đôi khi khó đóng gói lại để đăng ký bảo hộ và bán trọn gói được, nó thường
được chuyển giao dưới dạng “cầm tay chỉ việc”(on-job training), các khóa huấn
luyện chuyên sâu. Các hoạt động CME hay chỉ đạo tuyến của ngành y là minh họa
cho việc này. Các kết quả nghiên cứu ứng dụng dần dần bồi tụ cho tri thức tổ
chức, nó lồng ghép vào trong các quy trình, SOP, tiêu chuẩn kỹ thuật riêng…. Do
đó chúng ta phải biết cách quản lý những tri thức này để góp phần nâng cao năng
lực cạnh tranh trong điều kiện khan hiếm nguồn lực như hiện nay.
Trong
y khoa, là ngành cứu người, cộng với bối cảnh y tế công. Nên các kết quả nghiên
cứu ở giai đoạn triển khai và ứng dụng gần như miễn phí, và mọi người trong
ngành y đã quen với việc miễn phí này. Điều này tồn tại một thách thức lớn giữa
động lực nghiên cứu (kiếm tiền) và các vấn đề nhân đạo. Do đó tư nhân không thể
dể tìm một cái ngách để có thể phát triển một trung tâm xuất sắc. Vì nếu chọn
nhầm một lĩnh vực mà buộc phải miễn phí thì coi như toi, ví dụ như nhi khoa.
-
Trung tâm xuất sắc y khoa và vai trò của nó trong sự phát triển của y tế VN
Nhà
nước không bao giờ đủ tiền để nuôi nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu triển
khai và ứng dụng. Nhà nước chỉ tập trung ngân sách vào nghiên cứu cơ bản, nơi
tư nhân không có động lực đầu tư.
Trước
đây, khi VN còn được xem như là một nước nghèo, nguồn tiền quốc tế tài trợ cho
nghiên cứu và chuyển giao công nghệ mới, kỹ thuật mới, bí quyết…khá tốt. Họ
mang những IP gần lỗi thời (đã có cái khác hay hơn thay thế) chuyển giao cho VN
gần như là cho không, dưới danh nghĩa tài trợ nhân đạo. Nhưng từ khi VN trở
thành một nước thu nhập trung bình, thế giới giảm dần tài trợ và buộc chúng ta
phải mua nhiều hơn. Đương nhiên, khi ta không đủ khả năng để làm ra IP thì
không ai dại gì bán cho ta giá rẻ. Họ nhìn mặt ta mà bán. Cuộc chơi là do họ
làm chủ.
Chi
phí cho y tế VN sẽ không bao giờ giảm được khi phải đi mua IP từ nước ngoài.
Trong những kỹ thuật điều trị hiện đại tại VN thì chi phí cho việc mua IP từ
nước ngoài là bao nhiêu ? Tôi chưa đọc được báo cáo phân tích nào trong ngành
y, nhưng tôi nghĩ nó không dưới 50%, dưới nhiều dạng thức biến hóa tài chính
khác nhau (mua hóa chất, dụng cụ đặc biệt đi theo công nghệ cũng là một dạng
gián tiếp chi trả cho IP).
Trong
điều kiện các bệnh viện hiện nay, cùng lắm chúng ta chỉ có thể làm nghiên cứu
ứng dụng, nghiên cứu lâm sàng để tối ưu hóa các kỹ thuật điều trị hiện có, chứ
bệnh viện không đủ khả năng để làm các nghiên cứu triển khai, nghĩa là không
thể phát triển và sáng tạo ra các kỹ thuật điều trị mới mang tính tiên phong.
Nền
khoa học công nghệ VN, không chỉ trong y khoa, mà tất cả, thiếu hẳn những đơn
vị trung gian làm nhiệm vụ nghiên cứu triển khai, phát triển và sáng tạo ra IP
mới, làm nghiên cứu ứng dụng để tối ưu hóa các kỹ thuật điều trị, can thiệp… –
đó là vai trò của các TRUNG TÂM XUẤT SẮC.
Vài
đặc điểm của một Trung tâm xuất sắc
-
Không nghiên cứu tràn lan, nghiên cứu trong phạm vi một lĩnh vực chuyên môn hẹp
nào đó. Tập trung vào tạo ra IP để bán.
-
Không dùng ngân sách nhà nước để nghiên cứu. Phải huy động được nguồn lực từ xã
hội, đặc biệt là từ quỹ đầu tư. Phải sống được bằng IP mình làm ra – phải chịu
một áp lực là phải nghiên cứu một cách có hiệu quả. Trong y khoa, nếu nhà nước
thấy IP nào có ích lợi lớn cho đa số người dân, sẽ đứng ra mua lại và chia sẻ ra
rộng rải cho các bệnh viện khác chứ không tài trợ tiền để nghiên cứu.
- Một
CoE thành công khi bán được IP, huy động được nguồn lực đầu tư cho nghiên cứu.
2.
Năng lực lõi (Core competence) của một CoE
Năng
lực lõi là những năng lực chủ đạo, quan trọng mà một CoE phải có nếu muốn tồn
tại và phát triển. Phân tích năng lực lõi giúp ta tập trung nguồn lực và bồi tụ
nguồn lực.
-
Năng lực xây dựng chiến lược nghiên cứu, và vai trò của giám đốc khoa học:
trong nghiên cứu, có rất nhiều vấn đề để làm, hàng ngàn thứ chuyện để nghiên
cứu. Nghiên cứu là một quá trình đầu tư, đòi hỏi thời gian và tiền bạc. Cần
phải tập trung vào cái gì trong ngắn hạn, và định hướng dài hạn ra sao là một
quá trình xây dựng chiến lược. Giám đốc khoa học của một CoE là người phải tiên
đoán được viễn cảnh trong tương lai gần và xa của lĩnh vực khoa học của mình.
Và vạch ra được lộ trình cụ thể để nghiên cứu.
-
Thúc đẩy hiệu suất nghiên cứu: nhà khoa học thường không điều khiển được cảm
hứng của mình theo một định hướng nghiên cứu đã vạch ra. Đôi khi vô tình họ
phát hiện ra những thứ không nằm trong chiến lược, trong khi đó thứ cần thì
không nghĩ ra được. Giám đốc khoa học là người phải biết cách tạo ra môi trường
và tạo ra các tác động cần thiết để các nhà khoa học nghĩ ra được thứ chúng ta
cần.
- Xây
dựng tinh thần intrapreneurship cho nhà khoa học: thuật ngữ intrapreneurship
khó dịch ra tiếng Việt. Nói nôm na, ta cần làm cho các nhà khoa học một tinh
thần khao khát khám phá ra cái mới và biến nó thành những kết quả có thể KIẾM
TIỀN được. Nhà khoa học làm việc trong một CoE khác với làm việc trong một
trường đại học chổ này. Nhà khoa học tại trường đại học thường thích nghiên cứu
một cách tự do và hướng đến càng nhiều công bố càng tốt.
- Khả
năng mời gọi các quỹ đầu tư mạo hiểm tài trợ các dự án nghiên cứu. Tại VN,
những người có tiền thường thích bỏ tiền vào bất động sản hơn là đầu tư vào các
dự án nghiên cứu. Một phần vì không quen, nhưng phần nhiều là vì thiếu lòng
tin. Trong lĩnh vực này, xây dựng lòng tin cho nhà đầu tư là cực kỳ quan trọng,
làm sao để nhà đầu tư tin là ta dùng tiền của họ để nghiên cứu chứ không phải
lừa đảo lấy tiền làm chuyện khác.
- Marketing
và bán IP: đóng gói kết quả nghiên cứu - IP, đặt thương hiệu cho IP, làm truyền
thông và bán IP một cách chuyên nghiệp là một nghiệp vụ khá là xa lạ với các
nhà khoa học. Nhiều nơi làm ra IP hay nhưng không biết cách làm marketing và
bán nó. B2B marketing hay technology marketing là những lĩnh vực khá hẹp nên ít
nơi đào tạo, đa phần thứ chúng ta đang học là B2C marketing.
3. Từ
R&D đến C&D và Phát triển hệ sinh thái dịch vụ trong y khoa (medical
service ecosystem)
Mô
hình nghiên cứu & phát triển (R&D - research & development) trước
giờ thường được hiểu là một tổ chức nghiên cứu nào đó “tự đóng cửa để nghiên
cứu ra cái mới, và tự làm tất cả (closed innovation)”. Mô hình R&D bộc lộ
nhược điểm quan trọng là kết quả nghiên cứu rất bất định, khó tiên đoán khi nào
nghiên cứu ra, khi nào không. Do đó, các CoE trên thế giới hiện nay đang dịch
chuyển sang mô hình “open innovation” là C&D (connect & develop) – kết
nối và phát triển.
Diễn
đạt nôm na mô hình C&D như thế này:
Các
CoE vẫn hoạch định các chiến lược nghiên cứu. Nhưng họ tăng cường kết nối với
các trường đại học, viện nghiên cứu, hay các CoE khác để trao đổi và mua bán IP
mà họ cần. Vì mỗi CoE có chiến lược nghiên cứu khác nhau, nên việc mua bán IP
giữa các CoE vẫn có thể xảy ra. Trong cạnh tranh có hợp tác, trong hợp tác có
cạnh tranh là như vậy.
- Hệ
sinh thái dịch vụ
Ý
tưởng này trong kinh doanh đến từ sự bắt chước hệ sinh thái sinh học. Không một
cá thể nào có thể tồn tại độc lập mà không cần có một hệ sinh thái cho nó.
Trong hệ sinh thái, các thực thể (Entities) khác nhau đóng góp vào hệ sinh thái
một nhiệm vụ khác nhau. Các thực thể này không thể thiếu nhau được, chúng bổ
sung cho nhau, cộng sinh với nhau để cùng tồn tại và phát triển. Hệ sinh thái
lớn lên thì các thực thể bên trong cũng lớn lên.
Trong
hệ sinh thái vẫn có thể tồn tại sự cạnh tranh và công tác đang xem với nhau.
Một sinh thái mạnh làm cho các thành viên trong đó mạnh lên và chống chọi được
với sự tấn công từ bên ngoài.
Một
ví dụ về hệ sinh thái trong lĩnh vực sinh sản.
Trong
hệ sinh thái này các thành viên liên kết chặt chẻ với nhau xoay quanh mục đích
đảm bảo tốt nhất chức năng sinh sản, mang đến hạnh phúc hôn nhân cho các gia
đình. Nó bao gồm các thành viên hay các thực thể như sau:
-
Trung tâm xuất sắc IFV
-
Trung tâm xuất sắc về nam khoa
-
Bệnh viện sản, nhi
-
Trung tâm xuất sắc về ung bướu liên quan đến chức năng sinh sản nam/nữ
-
Trung tâm xuất sắc bệnh phụ khoa, tiền mãn kinh, mãn kinh
-
Trung tâm xuất sắc sinh sản tiền hôn nhân và di truyền học.
-
Trung tâm xuất sắc nhi sơ sinh
- Các
phòng khám sản phụ khoa, nam khoa, nhi khoa. Phòng khám gia đình.
-
Trung tâm xuất sắc về thẩm mỹ nam/nữ.
-
Trung tâm xuất sắc về chuẩn đoán hình ảnh (chuyên cho sinh sản)
-
Trung tâm xuất sắc về tâm lý sinh sản, tâm lý nhi.
- …
Các
trung tâm, bệnh viện, phòng khám này là những đơn vị khác nhau, liên kết lại
với nhau. Mỗi thành viên trong hệ sinh thái chuyên sâu, rất sâu một lĩnh vực,
phân công nhiệm vụ với nhau.
Sự
liên kết thể hiện qua:
-
Chia sẻ thông tin dữ liệu
- Tạo
điều kiện triển khai các nghiên cứu
- Hợp
tác nghiên cứu chia sẽ lợi ích từ nghiên cứu (sở hữu 1 phần IP)
- Mua
bán IP trong và ngoài hệ sinh thái.
-
Huấn luyện đào tạo chuyên sâu lẫn nhau.
Trong
hệ sinh thái, không một thành viên nào đủ lực để làm tất cả các lĩnh vực. Và ta
cũng đừng bao giờ nghĩ đến chuyện này trong thời buổi hiện nay.
Nhưng
trong một hệ sinh thái cần một “nhạc trưởng” để đều phối các thành viên (ràng
buộc mềm, không ràng buộc cứng) – thông thường nên là các bệnh viện sản nhi lớn
có uy tín.
Sự
cạnh tranh này hôm nay không phải là cạnh tranh giữa các thành viên, mà là cạnh
tranh giữa các hệ sinh thái với nhau. Ví dụ, hệ sinh thái sinh sản Sài Gòn- VN
, cạnh tranh với hệ sinh thái sinh sản Băng Cốc Thái Lan hay Hà Nội - VN chẳng
hạn. (xin hiểu hai từ cạnh tranh ở gốc nhìn tích cực).
4.
Tiềm năng cho các CoE tại Việt Nam
“Thị
trường y tế VN” có độ lớn đủ để làm động lực đầu tư. (Xin lỗi vì đã dùng thuật
ngữ độ lớn thị trường ở đây, nhưng chưa tìm ra được từ thích hợp).
Mô
hình bệnh tật, đặc điểm bệnh tật phụ thuộc vào điều kiện sống, môi trường…do đó
có những lĩnh vực chuyên môn không dùng được IP từ nước ngoài, mà phải “Người
Việt nghiên cứu cho người Việt”.
Nhân
lực trình độ cao trong y tế khá nhiều (theo tôi nghĩ tỷ lệ cao hơn những ngành
khác). Sử dụng tri thức của họ để làm ra tri thức và để bán tri thức (kinh tế
tri thức) là khả thi trong điều kiện VN, và mang đến thu nhập cao chính đáng
cho người tri thức. Nó thúc đẩy người ta lấy học hàm học vị là vì mong muốn mở
mang tri thức để làm ra tri thức và bán tri thức kiếm tiền, chứ không phải lấy
học vị để làm quan.
5.
Vượt qua những trở lực
-
Thẩm định và cấp phép IP của cơ quan chức năng
IP
trong y tế khác với lĩnh vực khác chính là chổ này. Vì nó ảnh hưởng đến tính
mạng con người nên nó phải được một cơ quan nào đó thẩm định và phê duyệt trước
khi triển khai.
Do
đó, đôi khi có những IP rất mới, mang tính tiên phong. Việc cơ quan thẩm định
không đủ năng lực để thẩm định là chuyện không phải là hiếm.
Tôi
có biết một vài nghiên cứu không xin phép được đăng ký tại VN . Do đó phải vòng
ra nước ngoài đăng ký (đăng ký pháp nhân tại nước ngoài) và do đó các IP lại bị
mang QUỐC TỊCH NƯỚC NGOÀI.
Do
đó, để thúc đẩy các CoE trong y tế, theo tôi, Bộ Y tế nên lưu ý đến điểm nghẽn
này.
-
Hình thành hệ sinh thái
Người
Việt chúng ta vẫn chưa chịu “liên kết để phát triển”. Suy diễn này của tôi có
thể võ đoán. Nhưng tập quán kinh doanh của người Việt vẫn thích “một mình một
chợ” hơn là những gì tôi thường quan sát được.
Trong
bối cảnh cạnh tranh bằng “hệ sinh thái” hiện nay, không ai có thể làm gì đó một
mình nếu không liên kết được với nhau.
Một
hệ sinh thái muốn thành công, trước hết, các thành viên trong hệ sinh thái phải
có niềm tin với nhau. Kế đến là có một đơn vị đủ uy tín để làm nhạc trưởng điều
phối và thỏa hiệp với các thành viên trong hệ sinh thái này.
Thật
sự tôi chưa quan sát được một hệ sinh thái đúng nghĩa tại VN đến giờ phút này.
-
Nguồn vốn đầu tư
Thuyết
phục người có tiền đầu tư vào khoa học thực sự là một thách thức khi bỏ tiền
vào bất động sản “ngon ăn hơn”.
Cá nhân
tôi không ít lần đi gõ cửa các đại gia để kêu gọi đầu tư vào các dự án nghiên
cứu phát triển. Nhưng đến giờ này tôi vẫn chỉ thuyết phục được vài dự án nhỏ
nhỏ.
Nhiều
đại gia tài sản bất động sản rất nhiều, tôi nói “anh chỉ cần bán 1 miếng đất
nhỏ trong hàng chục miếng đất của anh để đầu tư là đủ rồi, nhưng người ta vẫn
không đủ niềm tin”.
Đó là
lý do vì sao, các dự án nghiên cứu phát triển của VN tiềm năng, cuối cùng lại
được rót vốn bởi các nhà đầu tư nước ngoài, và do đó nó đều bị THAY ĐỔI QUỐC TỊCH.
Và đương nhiên, không ai dùng cụm từ “nó từng được nghiên cứu phát triển tại
VN” ra làm PR cả. Cuối cùng, các nhà khoa học VN bị mang tiếng là vô tích sự.
Thật
sự, nếu ở trong ngành, quý vị sẽ thấy các nhà khoa học VN không có vô tích sự
đâu. Họ làm ra IP rất nhiều, nhưng hầu hết đều bị “bán lúa non”, và trí tuệ họ
làm ra lại đóng góp vào nền kinh tế của quốc gia khác là không ít.
>>>
LỜI KẾT
Viết
ra những đều này, như là những trải nghiệm nho nhỏ trong việc phát triển một
CoE . Hy vọng, trong y tế sẽ có nhiều CoE trong tương lai.
Hy
vọng các nghiên cứu của các nhà khoa học trong ngành y được triển khai và phát
triển thành các IP chứ không đem cất vào ngăn kéo như nhiều lĩnh vực khác.
Sự
thành công sẽ đến với ai có thể vượt qua được những trở lực và gắn kết được với
một hệ sinh thái.
Trân trọng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét